Nơi giao lưu – Trao đổi kiến thức Toán học

Thursday, June 28, 2012

“Giáo dục là sức mạnh, cho cả thiện và ác”


Nhà vật lý học giải Nobel nổi tiếng của Mỹ R. Feynman đã nói về giáo dục đã tuyên bố: "Giáo dục là một sức mạnh, cho cả thiện và ác" bởi bản chất con người là yêu tự do, yêu quyền tự quyết và ghét bắt buộc. Cho nên nó muốn được chỉ đường đến chỗ phát triển chứ không muốn bị kéo đi, đẩy đi hay ép buộc".
 
 

Max Planck (1858 - 1947) khi còn là sinh viên tại Berlin, 1878 (trái) và khi về già. (Ảnh nguồn: mlahanas.de và physics.gla.ac.uk)
Max Planck: Gặp người thầy thứ nhất, một hạt giống được đánh thức
Nhà giáo bao đời, và ở bất cứ nơi đâu trên thế giới, đều có sứ mệnh thiêng liêng là dạy dỗ các thế hệ trẻ để truyền đạt kiến thức xã hội từ đời này sang đời khác, giúp xã hội tồn tại và không ngừng phát triển. Nhưng "dạy dỗ" bao hàm nhiều ý nghĩa. Có những nhà giáo đã dạy dỗ bằng tấm gương cao quý để học sinh học hỏi và noi theo. Hay bằng cách gây ấn tượng mạnh sâu sắc và gieo những hạt giống tốt trong học sinh, đánh thức và làm nảy nở các tài năng một cách âm thầm.
Max Planck sinh ngày 23-4-1858 tại Kiel (Bắc Đức), học vật lý ở Munich và Berlin.
Gia đình ông là những người có tiếng tăm, đáng tin cậy, thẳng thắn, trung thực, lý tưởng và thanh lịch.
Ông xong trung học lúc 16 tuổi, tốt nghiệp tiến sĩ năm 1879 tại Munich lúc 21 tuổi (năm Einstein mới ra đời), khá trẻ, và là privatdozent (giáo sư chưa có ghế) tại đây từ 1880-1885.
Sau đó là giáo sư ngoại ngạch ngành vật lý lý thuyết tại Kiel, và từ 1889 là người kế tục chiếc ghế giáo sư của người thầy khả kính của mình là Kirchhoff tại Berlin.
Chẳng hạn như người thầy Hermann Müller của Max Planck, người khai sáng thuyết lượng tử thế kỷ 20 mà năm 2008 là năm kỷ niệm sinh nhật thứ 150 của ông. Chính người thầy toán này - cuối thế kỷ 19 chưa có môn vật lý - đã gây ấn tượng mãnh mẽ lên cậu học sinh Max qua bài giảng về định luật bảo toàn năng lượng khiến cậu ta không quên được.
Ông cảm thấy được "khích lệ bởi những giờ giảng bài tuyệt vời mà tôi đã nhận được nhiều năm liền tại trường trung học Maximilians-Gymnasium của thầy toán Herman Müller, một con người ở tuổi trung niên, sắc sảo và hài hước, đã biết diễn giải ý nghĩa của các định luật vật lý mà ông dạy cho bọn học sinh chúng tôi bằng những thí dụ đặc sắc" như trong tự thuật khoa học của mình, lúc đó ông đã ngoài 80 tuổi.
Max Planck tiếp: "Điều không quên được đối với tôi là sự giải thích mà thầy Müller đã dùng cho chúng tôi trong thí dụ của thế năng của một người thợ hồ đang vận chuyển khó nhọc một viên đá xây dựng lên mái nhà. Công mà ông đã thực hiện không hề biến mất; nó được tích tụ, cả năm trời, cho đến ngày viên đá đó tách ra khỏi mái nhà, và rơi lên đầu của một người khách bộ hành đi qua."
Planck đã tiếp nhận định luật này, còn gọi là định luật cơ bản thứ nhất trong nhiệt học, như một tin lành. Và cậu học trò kia ôm ấp giấc mơ đi tìm những định luật phổ quát như thế trong trời đất. Một hạt giống được đánh thức.
Gặp người thầy thứ hai: Tòa nhà vật lý sắp sụp đổ, đừng đi!
Chưa hết. Cũng chính Max Planck sau đó lại gặp một vì thầy thứ hai lại khác với thầy thứ nhất. Đó là khi bước vào Đại học, trước khi chọn ngành, Max Planck đã hỏi ý kiến một vị giáo sư khả kính của ngành vật lý xem có nên học ngành này không.
Vị này trả lời, như Planck thuật lại "Nhưng tôi không thể quên được những lời nói của vị giáo sư sau cùng, Ngài von Jolly, khi tôi làm một cuộc từ giả để làm học trình cuối cùng tại Berlin, đúng ngành vật lý lý thuyết. Ông ấy nói như thế này: "Vật lý lý thuyết, đó là một ngành rất đẹp, nhưng hiện tại lại không có ghế giáo sư cho nó. Nhưng cơ bản nó sẽ không đem lại cái gì mới hơn. Vì với sự khám phá nguyên lý bảo toàn năng lượng thì tòa nhà vật lý lý thuyết đã khá hoàn chỉnh. Người ta có thể đó đây quét ra được một hạt bụi trong một góc này hay góc kia của tòa nhà, nhưng một điều gì mới mẻ cơ bản thì Ông sẽ không tìm được."
Vị giáo sư đó cả quyết mà không biết rằng tòa nhà vật lý sắp sụp đổ, và một trong những người sẽ làm cho nó sụp đổ chính là chàng sinh viên Max Planck đang đứng trước mặt mình chỉ không đầy một thập niên sau. May mà sinh viên Planck đã không để mình bị nản lòng! Suýt nữa có lẽ nhân loại đã mất đi thuyết lượng tử với vô vàn ứng dụng trong công nghiệp và cuộc sống như hôm nay thụ hưởng.
Kẻ thù lớn nhất của chân lý là sự ngạo mạn của quyền uy
 
Nhà vật lý của mọi thời đại Albert Einstein (1879 - 1855) (ảnh: Wiki)
Còn Einstein thì sao? Con người vốn "nổi loạn" từ nhỏ này cũng thế, ông gặp thầy đáng kính, như thầy văn mà ông nhớ mãi, nhưng cũng gặp không ít những vị thầy "đáng sợ", kỷ luật và giáo điều như nhà binh, kiêu ngạo xem thường học sinh.
Einstein sau này mới nói: "Kẻ thù lớn nhất của chân lý là sự ngạo mạn của quyền uy" (ngay cả trong giáo dục, khoa học). Cho nên Einstein đã bỏ ngang trường ở Munich đề một mình đến "tị nạn học" ở Thụy Sĩ.
Ở đó ông gặp một vị thầy rất khả kính, Jost Winteler, mà ông có thể nhận làm người cha tinh thần, rất tinh tế, biết tôn trọng và đầy tình thương yêu. Chính ông đã đem lại niềm tin cho Einstein để tiếp tục việc học. Cám ơn ông.
Rồi lên đại học ETH ở Zürich Einstein cũng lại gặp những vị thầy "áp đặt" làm ông cảm thấy ngột ngạt, khiến ông bỏ học nhiều giờ, trở thành nổi danh là anh học sinh "lười biếng, cúp cua". Nhưng đâu phải như thế. Einstein đã trốn các vị thầy đó để được tự học cái mình đang khao khát! Và đã học được nhiều hơn là giảng đường!
Planck không bỏ học, nhưng cũng thấy buồn tẻ và nản lòng trước các bài giảng, đâu phải của người tầm thường, mà của những con chim đại bàng của ngành vật lý lúc bấy giờ: H.Helmhotlz và G. Kirchhoff, để cuối cùng ông cũng rút lui về tự học ở những tác phẩm với văn phong sáng sủa và đầy thu hút của Rudolf Clausius, người khám phá định luật cơ bản thứ hai của nhiệt học, và tác giả của khái niệm entrôpi.
Thầy Minkowski của Einstein cũng đâu phải là người tầm thường, ông là một ngôi sao sáng chói của toán học. Nhưng Einstein đâu được thỏa mãn. Giấc mơ tri thức thầm kính của ông có lẽ không ai hiểu để tiếp sức, để rồi ông phải tự đi tìm con đường riêng chinh phục thế giới.
Chỉ vài năm sau, người thầy Minkowski phải giật mình không hiểu nổi tại sao cậu sinh viên lười biếng kia lại có được công trình nghiên cứu tuyệt vời về thuyết tương đối như thế.
"Giáo dục là một sức mạnh, cho cả thiện và ác"
 
"Giáo dục là một sức mạnh, cho cả thiện và ác" - Ảnh: Devianart
Những thí dụ trên là sự minh họa rất sinh động tính chất đôi, vâng của "con dao hai lưỡi" của sứ mệnh dạy dỗ thiêng liêng của các người thầy. Dạy dỗ cũng thể là "khai hoang", nhưng cũng có thể vô tình làm chết đi không hồi phục được những hạt giống quý của quốc gia, "cắt cỏ" nhưng cũng có thể cắt bỏ luôn một cách oan nghiệt những mầm non mới chớm nỡ. Nhà vật lý đoạt giải Nobel nổi tiếng của Mỹ R. Feynman, đã từng phát biểu như sau: : "Giáo dục là một sức mạnh, cho cả thiện và ác".
Comenius, một nhà sư phạm nổi tiếng của thế kỷ 17 ở châu Âu, cũng đã nói về con người như một tuyên ngôn: "Bản chất con người là yêu tự do, yêu quyền tự quyết và ghét bắt buộc. Cho nên nó muốn được chỉ đường đến chỗ phát triển chứ không muốn bị kéo đi, đẩy đi hay ép buộc".
Học sinh cần được hướng đến các nguồn tri thức chứ không nên bị kéo lôi. Miếng đất và không khí giáo dục phải được tạo ra sao cho màu mỡ, sách vở cần phải có nhiều nguồn và nhiều tính sáng tạo, và phải "xốp" để các hạt giống nảy mầm và phát triển tốt được. Học sinh phải thở được không khí học tập dễ thở như hít thở khí trời tự nhiên, các em phải là chủ thế chứ không phải là ‘vật thể'.
Mọi cách giáo dục cứng nhắc khuôn mẫu đều làm cho miếng đất giáo dục khô cằn và chai cứng, và không thể có được những cánh đồng bội thu. Hiểu biết, khoa học là sinh động, không phải là cái gì đơn điệu. Hãy xem thầy Hermann Müller của Max Planck.
Hãy là những vị thầy của tương lai, biết cái mình biết và chưa biết trong sự khiêm tốn, và luôn luôn phấn đấu để hiểu biết, để sáng tạo, nâng giáo dục lên thành nghệ thuật. "Kiến thức tự nó là khô cứng. Phải có thầy giỏi và trường tốt để làm sống nó lại" như Einstein nói.
Học sinh không phải học để biết quá khứ hay hiện tại. Mà các em phải học để có khả năng biết được tương lai và tự hoạch định cho mình! Mọi con đường dẫn đến khoa học, đến chân lý do đó không thể đóng kín mà phải được mở ra. Trong hướng đó chúng ta tìm thấy ý nghĩa của sứ mệnh cao cả và thiêng liêng của nhà giáo.
Cuối cùng nhưng không phải thứ yếu: nhà giáo theo nghĩa rộng không phải chỉ có vai trò khi họ đứng lớp, mà họ còn có vai trò khi họ để lại những tác phẩm hay: sách vở Những nhà khoa học vĩ đại bao giờ cũng là những con người tự học, và tìm đến các tác phẩm hay của những vị thầy trí tuệ, dù có lên lớp hay không. Đó chính là mái trường thứ hai rộng mở vươn đến tương lai cực kỳ quan trọng trong việc phát triển trí tuệ của con người./. 
GS Nguyễn Xuân Xanh - Tuần Việt Nam

No comments:

Post a Comment